Cattour

Điểm đến

Nghĩa trang Hàng Dương – Nơi yên nghỉ của hơn 2 vạn người tù cách mạng kiên trung

18/02/2019

Trước đây, nơi chôn cất các anh hùng liệt sỹ và tù nhân Côn Đảo hy sinh là nghĩa trang Hàng Keo chứ không phải là nghĩa trang Hàng Dương, nhưng do số lượng tù nhân hy sinh quá nhiều, nghĩa trang Hàng Keo không còn đủ chỗ để chôn cất nên thực dân Pháp mở nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù. Tính đến ngày Côn Đảo hoàn toàn giải phóng (1975), nghĩa trang lịch sử này tròn 35 tuổi. Trong vòng 35 năm ấy, ước tính có khoảng 6.000 tù nhân bị giết hại.

I. Giới thiệu về nghĩa trang Hàng Dương

Khi đến Côn Đảo, điều đầu tiên mà du khách nghĩ tới là đi sắm lễ để vào viếng mộ các anh hùng liệt sỹ tại nghĩa trang Hàng Dương. Việc này từ lâu đã trở thành luật bất thành văn bởi Côn Đảo là vùng đất thiêng, được che chở, bảo vệ bởi linh hồn của những chiến sỹ đã vùi xương máu của mình tại nơi đây.

Nghĩa trang Hàng Dương được xây dựng và tôn tạo vào ngày 19 tháng 12 năm 1992, được chia làm 4 khu:

Khu A: Gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể) trong đó 91 mộ có tên và 597 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 trở về trước. Nơi đây có mộ của liệt sĩ cách mạng Lê Hồng Phong và nhà yêu nước Nguyễn An Ninh.

+ Mộ Ủy viên Quốc tế Cộng sản Lê Hồng Phong

Nằm xa nhất thuộc khu A. Trước khi nâng cấp mộ đã được xây bằng gạch có bia bằng xi măng. Khi tôn tạo, xây dựng mới hoàn toàn từ thân mộ ốp bằng đá Granít, bia mộ, sân, hàng rào.                                                 

+  Mộ chiến sĩ Nguyễn An Ninh (1900-1943)

Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 - một Chí sĩ yêu nước bị Pháp bắt tù và bị chết ở đây. Mộ của chiến sĩ Nguyễn Văn Ninh nằm ở Khu A ( lớp mộ trước năm 1945). Trước khi nâng cấp, ngôi mộ đã được xây khá đẹp bằng gạch vữa. Khi tôn tạo giữ nguyên hình dáng bia mộ cũ với dòng chữ " Liệt sĩ chi mộ), tôn tạo tường rào, sân mộ, cảnh quan xung quanh.

Khu B: Gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể) trong đó 276 mộ có tên và 419 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 đến 1960. Nơi đây có mộ của nữ anh hùng Võ Thị Sáu và anh hùng Cao Văn Ngọc.

+ Mộ chị Võ Thị Sáu

Câu chuyện lịch sử về ngôi mộ của chị Võ Thị Sáu:

Chị Võ Thị Sáu (1933-1952 tham gia vào các hoạt động bí mật ở địa phương từ năm 12 tuổi. Năm 1950, Võ Thị Sáu bị địch bắt.. Tòa án Binh của Pháp kết án tử hình chị vào tháng 4 năm 1951, dù chị lúc này mới 16 tuổi. Chị bị lén lút xử bắn vào 7 giờ sáng ngày 13 thắng 01 năm 1952, tại Côn Đảo. Bọn cai ngục lấp xác chị trong bãi cát ở Hàng Dương.

Do "cảm phục" Võ Thị Sáu, ngay tối hôm 23/1, kíp tù làm thợ hồ ở khám 2, banh I đã tìm cách đúc một tấm bia bằng ximăng đề rõ họ tên, quê quán, ngày chết đặt ở đầu mộ. Sáng hôm sau hay tin, sĩ quan chỉ huy ngục Côn Đảo là Jarty đích thân dẫn lính đến đập nát tấm bia, san bằng ngôi mộ. Nhưng những người còn đi làm khổ sai vẫn lén giấu từng nhúm xi măng để dựng lại bia, đắp lại mộ Võ Thị Sáu.

Mộ chị Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương
Mộ chị Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương

Năm 1960, Tăng Tư  ra Côn Đảo nhận chức Phó tỉnh trưởng Côn Đảo, vợ ông này đang mắc bệnh nan y. Nghe chuyện về Võ Thị Sáu, ông này âm thầm lập bàn thờ Võ Thị Sáu trong nhà. Năm 1964, Tăng Tư lên chức Tỉnh trưởng, bà vợ khỏi bệnh. Vợ chồng Tăng Tư liền làm lễ tạ và gieo quẻ xin phép được trùng tu ngôi mộ của Sáu. Rồi vợ Tăng Tư về ngay Chợ Lớn đặt tấm bia có khắc rõ là: “Liệt nữ Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại Bà Rịa, mất ngày 23/1/1952”và tổ chức buổi lễ long trọng đặt bia trên mộ Chị. Bia cũ do những người thợ hồ đúc vẫn để nguyên.

Truyền thuyết lan truyền rằng: “Cô Sáu rất linh thiêng, không ai có thể đập phá được mộ của cô”, và những ai trực tiếp chỉ huy phá mộ thì vài hôm sau đã chết “bất đắc kỳ tử”, hoặc khùng khùng điên điên. Cũng từ đây, người trên đảo khi nhắc tới điều gì đều không thề: “Có trời đất quỷ thần”, mà thề: “Có cô Sáu chứng giám”.

Câu chuyện tôn tạo lại ngôi mộ lịch sử của chị Võ Thị Sáu:

Khi tiến hành tôn tạo lại ngôi mộ cũ của chị Võ Thị Sáu tại nghĩa trang Hàng Dương, những người công nhân sẽ phải đập bỏ phần vỏ mộ được Chúa đảo Tăng Tư xây dựng từ năm 1964 để xây vỏ mộ mới. Họ lo sợ “lời nguyền” sẽ linh ứng với mình nên vô cùng lo sợ. Trước khi động thổ, những người công nhân này đã thắp hương báo cáo với Chị: “Xin phép Chị cho chúng tôi xây lại Chị một ngôi nhà mới khang trang hơn. Mong Chị phù hộ cho chúng tôi”.

Tượng đài chị Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương
Tượng đài chị Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương

Nhóm thợ xây dựng cũng chọn người thợ cao niên nhất đùng búa đập mộ cũ. Tất cả mọi người đều nín thở chờ đợi nhưng không thấy việc gì xảy ra. Việc xây dựng diễn ra thuận lợi. Mặt mộ được ốp bằng một tấm đá Granit đỏ, phía sau Mộ có một chiếc gương đá hình tròn trên cho bức phù điêu chân dung Chị. Tấm bia bằng đá Granit được khắc chỉn chu chôn ở đầu mộ.  Những viên đá xây tường, lát nền được thuê đục từ Bà Rịa chở ra.  Hai bia cũ không phá đi mà chỉ dựng cạnh mộ mới. Khách thăm quan thấy mộ Chị hiện có ba tấm bia.

Sau khi xây dựng lớp vỏ mộ mới xong, đoàn thi công cắt cử một người trách nhiệm nhất, mỗi buổi sáng lại thắp hương trên mộ Chị. Tất cả những thuyền bè qua đây, khách qua thăm đảo đều đến thắp hương với hoa quả bánh kẹo. Gần như ngày nào cũng được hưởng lộc của Chị : hoa quả, bánh trái… Chị đã không trừng phạt những người công nhân này, mà còn ban lộc cho họ.

Chính những người xây mộ Chị còn đề xuất trồng một cây Lêkima lấy giống từ quê Đất Đỏ vào vị trí cây dương đã chết khô, không trồng cây dương mới nữa. Kiến nghị đưa thực thi.

>>> Tham khảo thêm: Văn khấn khi đi lễ và viếng mộ cô Sáu

+ Mộ Anh hùng Cao Văn Ngọc (1897-1962)

Anh hùng Cao Văn Ngọc có biệt danh là “ ông già chuồng cọp”, nằm ở khu B  (đa số mộ từ 1945-1960) được tôn tạo xây dựng bổ sung năm 1999 sau khi được truy tặng Anh hùng ngày 16/12/1998.

Khu C: Gồm 373 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể) trong đó 332 mộ có tên và 41 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1960 đến 1975. Nơi đây có mộ của anh hùng Lê Văn Việt.’

+ Mộ Anh hùng Lê Văn Việt (1937-1966)

Lê Văn Việt là một biệt động Sài gòn bị bắt khi tấn công Đại sứ quán Mỹ 1965, đày ra Côn Đảo và hy sinh tại đây. Lê Văn Việt được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT ngày 20/12/1994). Trước khi tôn tạo đã được xây đơn sơ và có bia mộ mang tên Nguyễn Văn Hai. Khi Lê Văn Việt được truy tặng Danh hiệu AH, UBND thành phố Hồ Chí Minh đề nghị được tôn tạo, nhưng Ban QL Công trình không đồng ý mà chỉ xây dựng theo mẫu của thiết kế đã được duyệt.

Những phần mộ còn giữ nguyên vị trí sau khi được tôn tạo ở nghĩa trang Hàng Dương
Những phần mộ còn giữ nguyên vị trí sau khi được tôn tạo ở nghĩa trang Hàng Dương

Khu D: Gồm 157 ngôi mộ, trong đó 14 mộ có tên và 144 mộ khuyết danh. Đặc biệt mộ khu D được quy tập các mộ từ Hòn Cau và Hàng Keo về.

Trong số hơn 20.000 người nằm lại Côn Đảo, chỉ còn gần 2000 nấm mộ, phần xương máu của những nhà cách mạng, các trí sĩ yêu nước đã tan biến vào đất thiêng Côn Đảo.

Những phần mộ phần lớn còn vô danh ở nghĩa trang Hàng Dương
Những phần mộ phần lớn còn vô danh ở nghĩa trang Hàng Dương

Khu A nghĩa trang, nơi có phần mộ cụ Nguyễn An Ninh và đồng chí Lê Hồng Phong là nơi chôn những ngôi mộ đầu tiên. Mỗi người tù xấu số được liệm bằng 2 chiếc bao bàng (đan bằng loại cỏ ống), cột 7 nút lại, rồi đưa ra vùi qua loa xuống cát. Có thời gian, mỗi ngày từ 15 đến 20 người tù chết, tất cả được chất lên xe bò chở ra hàng Dương vùi chung một hố.

Năm 1944, khu A đã chôn chật mộ, nhà tù đã mở rộng nghĩa trang về phía nam, tức khu B hiện nay. Hài cốt lớp tù nhân kháng chiến chống Pháp (1945-1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát chạy dài xuống phía đông nam, nơi có phần mộ người thiếu nữ anh hùng Võ Thị Sáu.

>>> Bài viết hay nên tham khảo: Kinh nghiệm sắm lễ viếng mộ cô Sáu và các anh hùng liệt sỹ ở nghĩa trang Hàng Dương

Hài cốt lớp tù nhân chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chôn tiếp qua khu C. Gần 500 tù chính trị câu lưu chống ly khai Đảng cộng sản trong những năm 1957-1963 được chôn trong khu B.

Mỗi ngôi mộ ở nghĩa trang này không chỉ là một số phận bi hùng, một chứng tích tội ác của thực dân đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu trang trong tù, tỏa sáng chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài cao vút uy nghi. Tượng đài cao 9m, nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/7/1980. Dưới chân bức tượng có ghi hàng chữ “Vĩnh biệt các đồng chí”. Tượng đài được tái tạo từ câu chuyện “ Chết còn cởi áo cho nhau”. Người trao áo là ông Lê Quang Vịnh, người nhận áo là ông Trần Trọng Tân.

Tượng đài ở trung tâm nghĩa trang Hàng Dương
Tượng đài ở trung tâm nghĩa trang Hàng Dương

Câu chuyện “Chết còn cởi áo cho nhau” được chính ông Lê Quang Vịnh và ông Trần Trọng Tân kể lại như sau:

Ông Lê Quang Vịnh, người đã 3 lần bị Mỹ - Diệm tuyên án tử hình và lưu đày 14 năm ở ngục tù Côn Đảo. Trong đó có 8 năm ròng rã bị đày đọa trong "Chuồng cọp", "Chuồng Bò", "Hầm Đá"... Dù bị đánh đập, tra khảo tàn bạo, dã man, ông vẫn luôn một lòng, một dạ sắt son, giữ vững lý tưởng của người cộng sản. Ông chỉ được đồng đội giải phóng khỏi gông xiềng chuồng cọp sáng 1/5/1975.

Ông Trần Trọng Tân bị bắt tại Sài Gòn năm 1969 khi đang giữ cương vị Ủy viên thường trực của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, bị giam ở khám Chí Hòa, sau đó bị đày đi Côn Đảo. Ông cũng là một trong những người lãnh đạo cơ sở đảng bí mật trong nhà tù Côn Đảo.

Ông Lê Quang Vịnh kể: Mùa đông năm 1971, khi tôi bị nhốt trong Hầm Đá, hằng đêm tôi thường nghe thấy tiếng rên của người tù mới đến ở hầm bên cạnh, qua người đưa cơm tôi được biết đó là một tù chính trị đang bị ốm. Sẵn có hai bộ bà ba đen mẹ mới may cho khi bà được ra Côn Đảo thăm con, tôi liền gửi cho người tù bên cạnh một chiếc áo.

Ông Hai Tân nhớ lại: Tôi từng bị Nhật bắt, rồi Pháp bắt tù, nhưng đậm nhất là những năm tôi bị Mỹ bắt giam ở Chí Hòa, rồi chuồng cọp ngoài Côn Đảo. Ở Côn Đảo, tình cảm của anh em bạn tù hết sức đặc biệt, thương yêu, bao bọc nhau rất chân tình. Hồi đó tôi bị giam ở Hầm Đá, trại 2, vốn đã gầy, hầm đá, trời lạnh, vậy mà có một ông bạn tù gửi cho cái áo. Sau này tôi mới biết là áo đó do mẹ gửi cho. Tôi rất xúc động. Tôi chỉ biết khu này toàn tù chung thân và tử hình chứ không biết tên. Cảm động quá, tôi tính phải trả lễ, bằng một bài thơ.

"Anh tặng tôi áo vải

Tôi gởi anh áo thơ

Cho có đi có lại

Ấm áp những ngày mưa

Áo lọt phòng giam, áo đến đây

Ôm hôn áo mới, nhớ câu này

Yêu nhau cởi áo cho nhau mặc

Mẹ hỏi: Qua cầu để gió bay

Cởi áo này đem gởi tặng ta

Về đời mẹ hỏi biết sao thưa?

Đây lao biệt lập, cầu không có

Phải mối tình chi lớn đẩy đưa

Mặc áo bà ba bạn mới cho

Ngỡ quà của mẹ tự phương mô

Áo mang hơi ấm: tình đồng chí

Hầm lạnh, nhốt hoài ta chẳng lo".

Nghĩ ra bài thơ rồi nhưng chuyển cách nào? Có lần ra ngoài, kiếm được một cái đinh nhỏ, mang về mài nhọn cất kỹ làm bút viết: viết lên tường, lên lá bàng. Ở Côn Đảo có rất nhiều cây bàng, mỗi ngày tù được phát hai lá để lau khi đi vệ sinh. Tôi viết bài thơ lên lá bàng ấy, không viết được nhiều, mỗi lá một câu, rồi lần lượt nhờ người đưa cơm chuyển giúp hết bài thơ, vậy mà nhận được hết.

"Tôi ngóng từng ngày cho đến khi nhận được đủ bài thơ, tôi xúc động lắm" - ông Vịnh kể, tôi hình dung người viết bài thơ này rất trí tuệ, nghĩa khí. Bài thơ đậm nghĩa tình bạn bè, đồng chí đã động viên tôi rất nhiều. Rồi trong cái nóng thiêu đốt của mùa hè, tôi viết một bài thơ trên lá bàng gửi lại cho bạn để động viên nhau, với tiêu đề “Mùa hè chuồng cọp”:

"Mưa trút dầu sôi, nắng lửa bùng

Mùa hè là bạn lũ thù chung

Cá tươi sắp lớp tê tê rãy

Thú dữ cháy rừng vật vã tung

Vôi bột sẵn phà lời tiếng rỡ

Nước bùn chực dội áo quần bung

Nửa đêm sao sáng soi hầm tối

Gió nhẹ xoa lòng nặng hiếu trung.

Ít lâu sau tôi nhận được bài thơ của bạn:

Chuồng cọp thơ anh lửa cháy bùng

Đây thơ hay súng bắn thù chung

Thương người đồng chí hoen tròng mắt

Giận lũ sài lang muốn nổ tung

Cám cảnh lả người cười chẳng tắt

Phục thay địa ngục vẫn cờ bung

Đến sau tôi quyết noi gương trước

Nghĩa Đảng, tình dân vạn hiếu trung".

Thời gian sau, ông Vịnh mới biết người bạn tù hầm đá bên cạnh là một trong những người lãnh đạo cơ sở đảng bí mật trong nhà tù Côn Đảo. Thông qua những chiếc lá bàng, những mẩu giấy cuộn thuốc lá, ông Vịnh và những người tù nhận được tài liệu học tập, những chủ trương của đảng ủy, những kinh nghiệm đấu tranh đối với kẻ thù... Cả hai người chỉ được giải phóng khỏi gông cùm và Hầm Đá vào sáng 1/5/1975. Đến lúc đó họ mới biết mặt nhau. Ông Trần Trọng Tân (Trần Trọng Hoãn, Phan Huy Vân, Hai Tân) từng là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị (1950), Ủy viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam (1961 - 1967), Ủy viên Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia (1980 - 1986), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, VII, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh…Ông từ trần ngày 4/8/2014 tại TP Hồ Chí Minh.

Sau khi thoát khỏi xiềng xích của nhà tù Côn Đảo, trở về với Đảng, với nhân dân, ông Lê Quang Vịnh tiếp tục hoạt động cách mạng với nhiều cương vị công tác khác nhau như: Thường vụ Đặc khu ủy Vũng Tàu - Côn Đảo kiêm Bí thư Huyện ủy Côn Đảo; Giám đốc Sở GD&ĐT TP Hồ Chí Minh; Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam; Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ kiêm Phó Ban Dân vận Trung ương Đảng. Ông kết hôn với bà Trần Thị Kim Khánh - em gái của ông Trần Trọng Tân và có 2 người con, được đặt tên như khát vọng khi ở trong tù: Trai là Lê Quang Tự Do và gái Lê Quang Hạnh Phúc.

II. Những câu chuyện lịch sử về nghĩa trang Hàng Dương

1. Những ngôi mộ vô danh

Trong 113 năm tồn tại của nhà tù Côn Đảo (1862-1975), mệnh danh là “địa ngục trần gian”, tay sai của thực dân, đế quốc đã bị giam cầm hàng chục ngàn tù nhân. Trong số đó đã có hơn 20.000 người đã chết vì bị tra tấn dưới chế độ tra tấn tàn bạo. Có thể nói, xác các tù nhân bị chôn vùi gần như ở khắp mọi nơi trong nghĩa trang Hàng Dương. Sau đó, do cuộc đấu tranh khốc liệt của các tù nhân, những người chết mới có một bia mộ mới bằng xi măng và một vài hòn đá trên nắm mộ.

2. Những ngôi mộ tập thể

Thông thường, các ngôi mộ trong nghĩa trang khi tôn tạo đều sắp xếp theo hàng thẳng ngang - dọc. Nhưng ở Hàng Dương ý đồ thiết kế quy hoạch không giống ở đâu: Các ngôi mộ cũ nằm lộn xộn ở đâu xây lại đúng vị trí và theo hướng cũ. Những bộ hài cốt mới phát hiện cũng theo nguyên tắc đó. Thực tế số hài cốt phát hiện trong quá trình xây dựng còn nhiều hơn cả số mộ có sẵn. Thậm chí sau một ngày gió chướng, cát bay đi lộ ra hàng chục bộ hài cốt. Các hài cốt tìm thấy không thể phân chia chính xác từng bộ thì xây dựng chung thành mộ đôi, mộ ba, mộ năm… (gọi là các ngôi mộ tập thể).

Hình dạng các ngôi mộ cũng không cần xây vuông vức mà chỉ xây thô bằng đá, gần như một đống đá đổ trên mộ. Trên đầu mỗi mộ có một “trụ bia” bằng bê tông, đầu trụ bia có gắn một khối đá Granít màu đỏ, trên đó khắc tên (nếu xác định được tên) và một ngôi sao. Ban đầu các ngôi sao đúc bằng đồng, nhưng chỉ một thời gian ngắn bị gió mặn làm cho rỉ xanh, phải gỡ bỏ. Qua nhiều lần thay đổi chất liệu, cuối cùng các ngôi sao bằng sứ màu vàng được sử dụng như hiện nay.

Với ý đồ thiết kế quy hoạch như vậy, các khu mộ trông rất lộn xộn, xung quanh mộ vẫn là cát như khi chưa nâng cấp.

Trong Nghĩa trang tất cả có 25 ngôi mộ tập thể. Phần lớn các mộ đều xác định được danh tính.

Riêng các mộ chuyển từ đảo Hòn Cau, khu Hàng Keo về là được quy hoạch thành lô, thành hàng phía sau Bia tưởng niệm Trung tâm.

III. Câu chuyện về cái tên “Nghĩa trang Hàng Dương”

Ban đầu, nghĩa trang Hàng Dương được đặt tên là “Nghĩa trang liệt sỹ Hàng Dương”. Trên bản thiết kế, cổng chính của nghĩa trang có kiến trúc là một khung hình vuông chiều cao bằng chiều rộng, hai cột đứng và xà ngang đều có tiết diện hình tam giác được ốp bằng đá Granit màu đen. Tên Nghĩa trang được gắn trên xà ngang của cổng chính làm bằng đồng.

Cổng nghĩa trang Hàng Dương
Cổng nghĩa trang Hàng Dương

Khi đội xây dựng nghĩa trang gắn chữ  “Nghĩa trang Liệt sĩ Hàng Dương” lên cổng nghĩa trang thì chỉ khoảng 1 tuần sau đó, có nhiều khách du lịch đã đến và chụp ảnh lại nghĩa trang, sau đó đăng tải lên mạng internet.

Dư luận trong cả nước khi nhìn thấy những tấm ảnh này đều nhất loạt phản ứng gay gắt. Theo ý kiến dư luận: “ Nghĩa trang Hàng Dương” có lịch sử cả trăm năm, tù nhân ở Côn Đảo đủ các thành phần: các đối tượng trộm cướp, đĩ điếm, tù chính trị… Khi bị hành quyết hoặc ốm yếu chết đều lấp xác ở Nghĩa trang này. Nếu gắn tên “Nghĩa trang Liệt sĩ Hàng Dương” thì các đối tượng hình sự, trộm cướp có mộ ở đây đều trở thành Liệt sĩ ? Mà việc tách bạch mộ nào là liệt sĩ, mộ nào không phải liệt sĩ là không thể làm được.

Sau các cuộc hội thảo, các nhà chức trách thống nhất là bỏ hai chữ “Liệt sĩ” trong tên nghĩa trang đi, chỉ còn là  “NGHIÃ TRANG HÀNG DƯƠNG”.

Dù không phải nghĩa trang Liệt sĩ, nhưng Nghĩa trang Hàng Dương vẫn trở thành Nghĩa trang Quốc Gia.

Ngày nay, dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng những gì nghĩa trang Hàng Dương và vùng đất thiêng Côn Đảo còn lưu dấu mãi mãi vẫn còn đó. Ấy là minh chứng lịch sử cho tấm lòng kiên trung, bền gan dạ sắt của những người tù đã quên thân mình, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng của đất nước.

Chúng ta, những con người được hưởng nền tự do, độc lập và hòa bình từ chính những sự hy sinh ấy, chắc chắn sẽ không bao giờ được quên công lao của lớp lớp những người đi trước.

Quý khách có nhu cầu đi du lịch Côn Đảo, vui lòng inbox cho Condaotrip để được sắp xếp một lịch trình hợp lý nhất.

>>> Click để tham khảo lịch trình các tour du lịch Côn Đảo trọn góitour Free and Easy Côn Đảo giá chỉ từ 3550k của Condaotrip

Condaotrip tự hào là nhà tổ chức các tour du lịch Côn Đảo hàng đầu tại Việt Nam!

Condaotrip.vn

Lan Nguyen / Condaotrip.vn - Ảnh: Internet


Xem thêm: Hàng Dương nghĩa trang Hàng Dương

Quay về trang trước Lên đầu trang

Tin cùng chuyên mục